Phân loại Liệt nữ truyện

Thiên Hán tự Dịch nghĩa
1母 儀 傳Hình mẫu đoan trang
2賢 明 傳Kính trọng và minh bạch
3仁 智 傳Nhân đức và thông thái
4貞 順 傳Tiết hạnh và hiếu thuận
5節 義 傳Phép tắc và đạo đức
6辯 通 傳Biện bác và hoàn mỹ
7孽 嬖 傳Những ái thiếp đồi trụy
8續 列 女 傳Tiểu sử bổ sung

Giải thích

  • Lời Án ngữ phần Mẫu nghi nói: "Duy bậc Mẫu nghi, có trí thánh hiền, làm theo điều nghĩa, nói thì đúng nghĩa, thai dưỡng con cháu, dần dần giáo hóa, đã thành toàn đức độ, lại đạt được công nghiệp. Những người làm mẹ và mẹ chồng đọc tới, không thể không noi theo"[1][2]. Mẫu nghi là điển hình của người mẹ hiền lương, họ dạy con đúng cách, giúp đỡ chồng làm nên công nghiệp.
  • Lời Án ngữ phần Hiền minh nói: "Duy bậc Hiền minh, liêm chính đúng cách, hành động có mực, nói là thành văn cương, hiểu rõ sự lý, biết giềng mối trên đời, cư xử theo pháp độ, trọn đời không gặp tai họa. Bậc hậu phi mà học theo ắt sẽ được tên tuổi rõ ràng"[3]. Họ hiểu sâu đại nghĩa, thông đạt sự lý, hành vi đoan chính, có người có thể nhắc nhở chồng, có người có thể biết được đại thể, tiến cử hiền tài, có người có thể cứu được nạn nước, là khuôn mẫu cho hậu phi học tập.
  • Lời Án ngữ phần Nhân trí nói: "Duy bậc Nhân trí, đoán được tai họa, theo đúng đạo trời, đổi họa thành phúc, làm điều nghĩa ở chỗ yên, nguy hiểm là tránh, trong lòng nơm nớp, luôn luôn cẩn thận. Các bậc phu nhân học theo, sẽ được hiển vinh"[4]. Họ kiến thức xa rộng, có thể nhìn mầm mống mà biết được điều sẽ xảy ra. Có người có tài biện luận, có người lo nước lo dân, đều là các phụ nữ thông minh trí tuệ.
  • Lời Án ngữ phần Trinh thuận là: "Duy bậc Trinh thuận, theo đạo tiến lên, tránh sự hiềm nghi, chắc đúng mới nói, trọn đời một lòng, là sự tốt đẹp trong thiên hạ, chăm chỉ trong sạch, chuyên tâm cẩn thận. Các tỳ thiếp xem vào, lấy đó làm khuôn mẫu"[5]. Họ đều là các phụ nữ giữ chắc lễ giáo phong kiến, có người thủ lễ mà chết, có người chồng chết không tái giá, thủ tiết trọn đời, có người tuẫn tiết theo chồng. Họ là các tiết phụ liệt nữ được biểu dương đặc biệt từ thời Tống Minh trở đi.
  • Lời Án ngữ phần Tiết nghĩa là: "Duy bậc Tiết nghĩa, không tránh né cái chết, thích điều lành mộ khí tiết, trọn đời không phụ nghĩa, thành tín dũng cảm, nếu có điều nguy hiểm nhưng đúng điều nghĩa thì không hề ngần ngại. Những người làm vợ học theo, lấy đó làm nền tảng"[6]. Họ là những phụ nữ hy sinh cá nhân để thành toàn cho người khác, hiến thân cho đạo nghĩa. Trong bọn họ có nghĩa bộc, nghĩa thê, nghĩa cô, nghĩa kế mẫu vân vân.
  • Lời Án ngữ phần Biện thông nói: "Duy bậc Biện thông, văn chương tài giỏi, nêu ra ví dụ, nói điều cát hung. Mọi chuyện lựa chữ, không hề sai lầm, có thể một lòng, lời lẽ rất công. Thê thiếp học theo, sẽ được người đời ngâm đọc"[7]. Họ ăn nói khéo léo, giỏi về văn chương, mẫn tiệp hơn người. Trong bọn họ có người nhờ tài biện luận mà tham gia chính sự, có người nhờ tài ăn nói mà rửa oan cho mình hay thân thuộc, tránh được tai họa và sự nhục nhã.
  • Lời Án ngữ phần Bế nghiệt nói: "Duy kẻ Bế nghiệt, thì rất đáng ghét, dâm tà đố kỵ, phụ nghĩa bỏ tiết, chỉ làm điều sai, cuối cùng chịu họa"[8]. Bế nghiệt đồng nghĩa với từ "Nữ họa", kể ra nhiều điển hình phụ nữ làm khuynh đảo chính sự thời Tiên Tần, lấy đó cảnh tỉnh khuyên răn người đời, đề phòng nữ họa. Phần Bế nghiệt chứa đầy phê phán đối với phụ nữ loại này. Loại phụ nữ này phần nhiều là dung mạo xinh đẹp nhưng không sửa đức độ, chuyên gây họa cho xã tắc, gia đình. Đủ thấy Lưu Hướng cũng muốn người đọc thấm nhuần tinh thần "trọng đức khinh sắc".